Mới đây, Bệnh viện Đại học Y Dược TP HCM có tiếp nhận một trường hợp dị dạng tĩnh mạch. Bệnh nhân là một cô gái trẻ 17 tuổi đến khám trong tình trạng đau, khó há miệng, hơi phù nề vùng má trái.
Bệnh nhân chia sẻ, cách đây 5 năm, cô đã xuất hiện các triệu chứng đau trên nhưng đi khám nhiều bệnh viện không tìm ra nguyên nhân để điều trị dứt điểm. Quá chán nản, bệnh nhân chấp nhận nỗi đau, sống chung với bệnh. Tuy nhiên, mới đây, bệnh nhân bị đau nhiều và có cảm giác khó chịu khi há miệng. Điều này ảnh hưởng tới sinh hoạt và cuộc sống nên cô đã tới Bệnh viện Đại học Y Dược TP HCM khám.
Các bác sĩ Bệnh viện Đại học Y Dược TP HCM đã chỉ định cho bệnh nhân chụp MRI phát hiện tổn thương vùng hàm (trái) nghi ngờ bệnh nhân dị dạng tĩnh mạch, nằm khuất trong xương hàm dưới. Bệnh nhân có chỉ định can thiệp.
Sau can thiệp 3 tháng, bệnh nhân không còn đau, há miệng và nhai hoàn toàn bình thường. Kết quả chụp MRI kiểm tra bệnh nhân hết hẳn dị dạng.
Bác sĩ chuyên khoa I Trần Quốc Tuấn (Ảnh: Bác sĩ cung cấp)
Bác sĩ chuyên khoa I Trần Quốc Tuấn (Ảnh: Bác sĩ cung cấp)
Hay như trường hợp bệnh nhân 4 tuổi bị dị dạng bạch mạch làm mắt trái lồi to khiến bé rất đau. Trường hợp này nếu bé không được can thiệp sẽ bị mất lực mắt trái và đau đớn liên tục. Sau điều trị mắt trái của bé gần như về bình thường.
Bác sĩ chuyên khoa I Trần Quốc Tuấn, Khoa Ngoại thần kinh, Bệnh viện Đại học Y Dược TP HCM, cho haycác dị dạng mạch máu bẩm sinh nếu ở đầu mặt cổ thì tùy vị trí và tùy loại mà có thể gây ảnh hưởng đến sự phát triển và sinh hoạt của bệnh nhân. Một số loại dị dạng có thể tự thoái triển, không cần điều trị can thiệp.
Tuy nhiên, đa số các loại dị dạng mạch máu không tự thoái triển và có thể gây triệu chứng như chảy máu, chèn ép mô lành xung quanh, biến dạng phần cơ thể có dị dạng so với bên kia khiến bệnh nhân có thể bị ảnh hưởng về mặt tâm lý.
Riêng các dị dạng mạch máu nội sọ bẩm sinh sẽ có nguy cơ cao, nguy hiểm nhất là chảy máu nội sọ và suy tim do tăng lượng máu về tim quá nhiều ở trẻ nhỏ.
Các dị dạng mạch máu nội sọ đa phần cũng cần được phát hiện sớm (lý tưởng nhất là phát hiện qua tầm soát tiền sản) và điều trị sớm khi có triệu chứng, cũng như có kết hoạch tiếp cận và theo dõi dài hơi kỹ càng.
"Can thiệp điều trị các dị dạng mạch máu bẩm sinh khi có chỉ định giúp giảm hẳn các diễn tiến của bệnh. Một tỷ lệ không nhỏ có thể điều trị khỏi bệnh, đồng thời làm cân đối các phần cơ thể so với đối bên, và hạn chế được sự tàn phá mô lành so với phẫu thuật truyền thống, giúp bệnh nhân có được cuộc sống và phát triển bình thường nhất có thể", bác sĩ Quốc Tuấn nói.
Theo bác sĩ Quốc Tuấn, đa số các trường hợp dị dạng mạch máu bẩm sinh ở nhi trước đây được điều trị bằng phẫu thuật hoặc xơ hóa với các chất xơ hóa khác nhau. Phẫu thuật các dị dạng mạch máu như dị dạng tĩnh mạch, dị dạng bạch mạch… thường không làm hết được tổn thương, đồng thời để lại sẹo co rút gây ảnh hưởng sinh hoạt khá nhiều do các dị dạng loại này thường phân bố xen kẽ các mô lành khác.
Xơ hóa nếu không có siêu âm và máy DSA hỗ trợ thì rất khó tiếp cận chính xác các dị dạng nằm sâu hoặc nằm ở các vị trí quan trọng như hầu họng, mắt, các ngách xương hàm… khiến hiệu quả điều trị chưa được tối ưu.
Với các dị dạng mạch máu trong sọ, can thiệp nội mạch tiếp cận điều trị các tổn thương nội sọ là hướng phát triển khá mới, giúp điều trị rất hiệu quả các dị dạng mạch máu nội sọ.
Điều trị dị dạng mạch máu bẩm sinh ở bệnh nhi đã được bắt đầu khoảng 5-10 năm gần đây nhưng mức độ thống nhất về phần loại và kỹ thuật chưa cao, cũng như rất ít nơi điều trị được các tổn thương nằm sâu hoặc nằm ở các vị trí nhiều nguy cơ như hầu họng, mắt, hàm....